
Sắc
thái văn hóa sông nước vùng U Minh /
Nguyễn Diệp Mai. - H : Dân trí, 2011. - 257tr; 21cm.
Trong bước đường đi mở
cõi của cha ông, vùng đất U Minh đã được đi vào thơ văn, trong đó có hai câu ca
dao: “U Minh, Rạch Giá, thị quá sơn trường/Dưới
sông cá lội, trên rừng cọp đua…”. Một U Minh hoang vu, mù mịt của những
ngày khai hoang với những cánh rừng bạt ngàn, kênh rạch chằng chịt, ngoằn ngoèo
giờ đây đã khoác lên mình một diện mạo mới, một sức sống mới với một sắc
thái mang dấu ấn sông nước đặc trưng của vùng U Minh. Tuy nhiên, cùng với sự
thu hẹp về mặt tự nhiên, sự biến đổi văn hoá xã hội và kinh tế hiện đại, văn
hoá truyền thống vùng U Minh đang dần mất đi. Vì vậy Hội Văn nghệ dân
gian Việt Nam phối hợp cùng nhà xuất bản Dân trí phát hành cuốn sách “Sắc thái văn hoá sông nước vùng U Minh” do tác giả
Nguyễn Diệp Mai biên soạn nhằm gìn giữ và phát huy giá trị bản sắc văn hoá dân
gian vùng U Minh.
Nguyễn Diệp Mai sinh năm 1972, là hội
viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội
Văn nghệ Dân gian Việt Nam, Hội
Nhà báo Việt Nam. Tuy sinh
ra ở Cà Mau nhưng sự nghiệp của chị thì gắn liền với Kiên Giang. Hiện tại chị
đang công tác tại Sở Văn hóa, Thể thao Kiên Giang và sinh hoạt tại Phân
hội Nhiếp ảnh, Văn nghệ dân gian tỉnh Kiên Giang. Một số tác phẩm tiêu biểu của chị như: Ân tình
theo gió cuốn (tiểu thuyết), Chuyện hoa pan-sê (truyện dài), Nhân tình (truyện
ngắn), Đường về Hà Tiên (tiểu thuyết)…
Cuốn
sách “Sắc thái văn hoá sông nước vùng U Minh”
được Diệp Mai biên soạn. Sách dày 257 trang được in trên khổ 21 cm. Sách được
chia thánh hai chương.
Ở chương I, tác giả khái quát về vùng U Minh. Trước kia vùng
U Minh chủ yếu là rừng tràm “...với diện
tích đến năm 1930 có 142.520 hecta bao gồm các tỉnh Rạch Giá, Bạc Liêu, Hà
Tiên. Vùng U Minh ngày nay bao gồm Tứ giác Long xuyên và vùng bán đảo Cà Mau (U
Minh Thượng và U Minh Hạ)”. Cũng trong chương này tác giả còn lý giải về
tên gọi của U Minh và cung cấp cho bạn đọc nhiều thông tin về quá trình hình
thành cư dân cũng như việc khai thác nguồn lợi tự nhiên rừng U Minh tạo nên nét
văn hoá “làm chơi ăn thật” hay “nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá”…
Sang chương II, tác giả cung cấp cho chúng ta những thông tin
cụ thể về đời sống sinh hoạt thường ngày từ ăn, uống cho đến ở, mặc, đi lại của
người dân U Minh. Từ nguồn thực phẩm, cách chế biến trong nấu ăn hay nguyên vật
liệu làm nhà, các kiểu nhà và bài trí nhà, các loại phương tiện đi lại cho đến
các ngành nghề. Cũng trong chương này, tác giả còn giúp chúng ta hiểu biết thêm
về đời sống tâm linh của người dân U Minh thông qua các tục thờ cúng và những truyền
thuyết liên quan đến tục thờ cúng thần sông nước. Ngoài ra, ở phần phụ lục, tác
giả cũng đã phân loại sắp xếp theo nhóm theo vần để giúp độc giả có được thông
tin chi tiết nhất về một số loài thực vật…
“Sắc thái văn hoá sông nước vùng U Minh” sẽ cung cấp
bạn đọc một vài nguyên tắc trong ăn uống của người dân U Minh, trong đó có
nguyên tắc khi lên mâm bao giờ cũng kính cho người cao tuổi hoặc họ hàng có vai
vế lớn nhất; lòng cá, gà, vịt cũng vậy. Cá lớn bao giờ cũng múc khúc đầu, khúc
giữa lên mâm cho ông bà, cha mẹ; cá rô dẽ từ đuôi lên, không được dẽ trên lưng
hay ngang bụng…
“Sắc thái văn hoá sông nước vùng U Minh” còn giúp
chúng ta phân biệt được một số loại phương tiện đặc trưng của người dân vùng
sông nước như các loại xuồng ba lá, xuồng mõ, xuồng năm lá, ghe cuôi, ghe tam bản,
ghe lường, ghe cà dom, ghe chài, vỏ tắc ráng. Trong “Sắc thái văn hoá sông nước vùng U Minh” còn hướng dẫn
chúng ta cách chế biến thức ăn bằng chiếc khăn rằn, sử dụng khăn rằn trong nấu cơm, nấu thức ăn.
Sách hiện đang được trưng bày và phục vụ tại Thư viện tỉnh
Kiên Giang, mời độc giả tìm đọc.